Nguyễn Hoàng Đức ….cô đơn thi sĩ

SƯƠNG NGUYỆT MINH: Câu chuyện về Nguyễn Hoàng Đức – Dị nhân – “Nhà triết học số 1 châu Á?”, “nhà Lý luận – Phê bình Văn học hàng đầu thế giới?”, nhà thần học, nhà mỹ học, nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà biên kịch, nhà tình yêu học…vv… vẫn kéo dài miên man bất tận. Xin giới thiệu với bạn đọc phần tiếp theo.

NGUYỄN HOÀNG ĐỨC – DỊ NHÂN MỘNG TƯỞNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG 

Phần 3: CÔ ĐƠN CON NGƯỜI – CÔ ĐƠN THI SĨ.

alt

Nguyễn Hoàng Đức mắc một căn bệnh kỳ lạ, những ngày động trời, từ trường trái đất mạnh lên là máu tươi cứ tứa ra lỗ chân lông. Khi ấy, ông đau đớn vô cùng, cả đêm thức trắng không ngủ. Triết học, thần học, trường ca dài nhất thế giới… rủ đi hết, đêm đêm ông lặng lẽ ngồi vo những nắm bông trắng thấm máu trên cơ thể mình thả vào thùng rác. Chỉ một ngày sau, thùng rác đã đầy có ngọn bông máu đỏ. Khoảng một tuần thì khỏi, để rồi mỗi khi động trời ông lại chịu khổ nạn một chu kỳ mới. Hết ứa máu, da ông bắt đầu đóng vảy… như vảy rồng, sáng ngủ dậy vảy rụng đầy ga trắng những miếng á sừng hình dạng kích thước khác nhau, vun lại được cả nắm. Ông không đi bệnh viện, ở nhà cũng không uống thuốc và chưa bao giờ ông có ý định tìm thầy thuốc hay đến bệnh viện chữa cho mình. Tôi ái ngại bảo:
“Ông phải đi viện điều trị. Để mãi thế này khổ lắm.”
Ông lắc đầu, quả quyết, không mảy may đắn đo:
“Cái khổ của tôi không phải là cái khổ bình thường, mà là cái khổ tuẫn nạn! Tôi đang chịu sự hành xác vì Chúa”. 
Nguyễn Hoàng Đức đã là con chiên của Chúa hơn hai mươi năm nay. Không tuần nào ông bỏ sót đi lễ nhà thờ. Ở Trại sáng tác văn học Sầm Sơn, cuối chiều thứ 7 nào ông cũng gác bút, đi bộ đến nhà thờ quỳ lạy trước Chúa và nghe cha xứ giảng giáo lý. Lòng tin Chúa vững chắc đến mức ông tin Chúa sáng thế ra thế giới khổ đau này và nói điều gì, ông cũng bảo là “ý Chúa”. Trong tiềm thức kì bí mầu nhiệm, ông tin mình là một con chiên được Chúa yêu thương, chỉ có điều Chúa đang còn thử thách, thử thách cũng chính là hành trình được Chúa đưa ông đến đài vinh quang. Và ông tin, một ngày đẹp trời nào đó, ông sẽ khỏi bệnh, ông sẽ được Giải thưởng văn học Nobel. Chúa lòng lành nhìn thấu mọi sự cõi con chiên, Chúa sẽ không bỏ sót ông. Ngày đó không còn xa nữa, hoặc xa lắm cũng chỉ đến lúc cái thế hệ bạn văn, bạn đọc hôm nay tận vong, thay bằng một thứ bạn đọc, bạn văn khác thì mới hiểu nổi tư tưởng của ông. Vì vậy, ông ngồi viết những trang triết luận, những trang văn thơ trong những ngày máu tứa đầy mình một cách sục sôi, mà an lành.
Nguyễn Hoàng Đức luôn nói ông cô đơn nhất trong mọi nỗi, mọi người cô đơn. Ông bảo tôi: “Ông có cô đơn bên người thân, hay thất tình, hay cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình thì vẫn chỉ là nỗi buồn nhỏ bé, lặt vặt, ông vẫn còn người để mà thấy, mà nhìn, mà nghe tiếng người”. Nguyễn Hoàng Đức cũng cô đơn trong thường nhật. Hơn 20 năm rồi ông sống đơn lẻ một mình. Một mình một tượng Chúa. Một mình một nhà. Một mình một bếp. Một mình một cây đàn piano. Một mình… Cái gì cũng một… để cần mẫn viết những trước tác khổng lồ cho nhân loại. Chỉ riêng bát đũa là không một mình, bởi thỉnh thoảng ông đãi khách ở nhà. Thời bao cấp đói rách hàn vi, tết đến, điện đóm phập phù lúc có lúc không, ông chỉ đủ tiền mua một cây nến thắp đêm giao thừa, ông hiu hắt buồn cũng như ngọn nến liu riu thương ông mà cháy chậm lại chờ trời sáng. Năm sau, đời sống khá hơn, đêm giao thừa, Nguyễn Hoàng Đức thắp 7 ngọn nến cháy sáng nhảy nhót reo vui, ông cảm thấy mình đang ngồi trước bản đại giao hưởng ánh sáng, nhưng vẫn một mình, hào quang của giao hưởng không át nổi nỗi đơn độc trĩu nặng của người đàn ông bất lực trước hôn nhân.
Khác với người thường chúng sinh như tôi, ông còn một nỗi cô đơn rợp ngợp của kiếp người mang tên: Nỗi cô đơn thời đại. Nghĩa thực dễ nhìn thấy là ông vào ra cả ngày đêm, cả tuần, cả năm không có ai ở bên, đến ăn cũng một mình, ngủ cũng một mình, giao thừa cũng một mình. Võ võ. Đơn độc. Không đảng, đoàn, không hội, nhóm, không làm ở cơ quan nào, sống tự do và viết để sống. Nghĩa ảo là cả dân tộc này, cả thế giới này không ai hiểu được nỗi niềm, tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, tầm vóc khổng lồ của ông. Và đặc biệt, không ai hiểu hết giá trị triết học, thần học, văn thơ… của ông. Ông mang tâm trạng của người: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất. Không có chi bè bạn nối cùng ta”. 
Ông luôn luôn cảm thấy mình không được công nhận, luôn luôn thiệt thòi, luôn luôn đứng ở hành lang. Ông viết nhiều nhưng được in quá ít, như muối bỏ biển. Ông luôn cảm thấy văn tài bị vùi rập, bị dìm hàng; nhưng ông tin một ngày mai người đời không bỏ rơi ông. Chẳng lẽ ba bộ tiểu thuyết dầy gần 1 vạn trang, với những trường ca dài nhất thế giới phải chờ đến khi ông về với Chúa mới được loại người tối tăm chợt nhận ra và hân hoan đón nhận? Tôi nói với Nguyễn Hoàng Đức rằng: “Ông chót sinh ra bất phùng thời. Chúng tôi tối tăm chưa nhận ra cái hay và vẻ đẹp kỳ vĩ tác phẩm của ông thì chính chúng tôi mới có khuyết điểm, mới thiệt thòi, chứ không phải là ông”. Tuy nhiên, xuất bản tư nhân đang lấn át xuất bản nhà nước (mậu dịch quốc doanh như ông nói) vẫn không mặn mà với tác phẩm Nguyễn Hoàng Đức? Bạn đọc thích đọc các bài tranh luận trên internet của ông hơn là tìm đọc sách chuyên luận triết học, thần học và tác phẩm văn chương của ông. Song ông không lấy đó làm buồn. Số ít mới là số quý. Một nhà văn đọc tác phẩm của ông còn quý giá gấp nhiều lần hàng vạn người đọc ất ơ.
Nguyễn Hoàng Đức đọc “Sông Đông êm đềm” của nhà văn Solokhov. Rồi rút ra chân lý: “Thử so sánh, chúng ta thấy, mỗi người đàn ông xứ họ khi ra khỏi nhà đều nhảy lên lưng ngựa, khi hành động, ứng xử, hay tranh luận người ta đều thể hiện sự trưởng thành, tính mã hiệp của mình”. Ông buồn vì xứ mình người ta ra đường lại nhảy lên lưng trâu, trâu thì không thể so với ngựa về sự trưởng thành và mã hiệp. Vì thế, có người xa lánh ông, đến tranh luận người ta cũng lảng tránh, không tranh luận với ông, hoặc tranh luận thì “ăn gian”, nước đôi lập lờ, đuối lý thì đánh bài chuồn. Ông buồn. Ông đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch trong tranh luận, không ấm ớ hội tề. Ông đòi người đối thọai “Hãy chứng minh đi!” Cũng như ai đó nói cướp lời, ông bảo: “Tôi xin ông 1 phút”. Nói xong, ông bảo: “Giờ, đến lượt ông. Cho hẳn 10 phút.”
Ông luôn thách đố bất kỳ ai đặt câu hỏi khó nhất thế giới để ông trả lời. Nhưng, cho đến hiện nay, vẫn chưa có người đủ tầm tư tưởng và triết học đặt ra câu hỏi thử thách trí tuệ ông. Ông thèm có một sới văn chương cho ông so găng, ông khát một diễn đàn triết học để ông tranh luận. Có đêm mất ngủ, ông muốn dựng nhà triết học Trần Đức Thảo dậy để hỏi: “Từ điển các nhà triết học” đồ sộ dày 2715 trang tiếng Pháp, khổ lớn, giới thiệu thân thế, sự nghiệp các nhà triết học danh tiếng của nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Có những tên tuổi lớn chỉ được dành cho dăm ba dòng, tệ hơn nữa là tôi – Nhà triết học số 1 châu Á Nguyễn Hoàng Đức thì không được chữ nào ở đó. Nhưng ông – Trần Đức Thảo lại được giới thiệu tới ba trang. Vì sao?” Ơ hay! Ông hỏi thì phải hỏi Bernard và Dorothee Rousset với Ban biên tập quyển sách vĩ đại ấy, chứ sao lại hỏi nhà Triết học Trần Đức Thảo đang dong chơi ở cõi Niết Bàn từ năm 1993!
Tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức rất mệt. Đang ở vấn đề A thì ông lấy ví dụ ở mệnh đề B để chứng minh, đang ở mệnh đề B thì ông lấy dẫn chứng ở hệ quả C để giải thích. Ai không tinh ý sẽ bị ông dẫn dắt vào trận đồ bát quái, không có lối ra. Cuộc tranh luận nào, ông cũng là người nói câu cuối cùng. Hầu hết, người ta bỏ cuộc. Bỏ cuộc vì mệt quá, không lại với ông trường thanh đại sức. Bỏ cuộc vì không lý lẽ đấu lại với Đức. Bỏ vì Đức thừa thời gian chỉ để tranh luận, viết bài về một vấn đề triền miên hết tháng này qua năm khác. Bỏ vì… tức giận. Nhưng, bỏ thì bỏ vẫn cứ không ghét hay coi thường ông. Vắng ông là cuộc nhậu mất vui, lại nhớ, lại cầm điện thoại í ới mời ông ra làm… “món nhậu”. Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc bia rượu, món ăn trở thành thứ yếu, “món nhậu Nguyễn Hoàng Đức” mới là quan trọng và hấp dẫn.
Nguyễn Hoàng Đức có cái đàn piano cũ nhất Việt Nam, thảng hoặc ông lật nắp đàn lên ngắm, ông có cảm giác như đang nhìn trộm công chúa tắm. Đây là cảm hứng của các vĩ nhân cô đơn chơi đàn như một tâm sự, giống Khổng Minh trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần chơi đàn thì mơ hồ cảm giác như có người nào đang lấp ló nghe trộm. Nguyễn Hoàng Đức yêu cái đàn piano như yêu một người đẹp hoàn mỹ. Không ít lần, bần thần vuốt các phím đen trắng, ông cảm giác được sự minh định phải trái, trắng đen rõ ràng, không mập mờ, giống như con đường chân lý. Ông gõ vào phím trắng là gõ vào tự nhiên, gõ vào đá, gỗ, sắt… Ông gõ vào phím đen bán âm là là gõ vào cái sự nhân tạo, chỉ do con người làm nên, tựa như gõ vào trí tuệ và trái tim để lay động sáng tạo ra văn chương nghệ thuật.
Nguyễn Hoàng Đức chơi đàn thường ngày, ngày nào cũng dành ít nhất là một tiếng đồng hồ ngồi dạo các ngón tay trên phím đàn piano. Cái đàn piano này ông mua từ thủơ hàn vi nghèo khó. Dạo ấy, ông đi phiên dịch cho dầu khí, được ít tiền, thay vì mua được cái nhà cấp 4 diện tích 30m2 thì ông mua đàn. Cũng là cách chia sẻ nỗi lòng khi không còn bầu bạn được cùng ai thì gửi tâm sự vào âm nhạc. Chiếc đàn sẽ là người bạn thủ thỉ tâm tình cùng ông. Ông đạp cái xe đạp tòng tọc chở người nghệ nhân lên giây đàn giỏi nhất miền Bắc đi mua piano. Người chủ đàn trố mắt ngạc nhiên nhìn hai gã gầy gò, hốc hác và chiếc xe đạp bó lốp. Không ngã giá một câu, ông gọi hai bác cửu vạn mang đến cái võng và cây luồng, đằng trước buộc lên gác ba ga xe đạp, đằng sau buộc lên phốc tăng một cái xe đạp nữa. Dùng dằng vài tiếng đồng hồ rồi cũng võng cái đàn piano về đến nhà. Hai bác thợ cửu vạn nhận tiền công, còn được ông chiêu đãi một bản nhạc “Phiên chợ Ba tư” trước khi ra về. Dọc đường bác nọ hỏi bác kia trả lời: “Mày nghe nhạc có thấy thích không?” “Không! Nhức đầu lắm. Cứ như phèng la đám ma. Nể mà ngồi nghe cho hết bài”. 
Nguyễn Hoàng Đức là kẻ dấn thân nghệ thuật. Dù nghèo, đi xe đạp ọc ạch bó lốp, nhưng cứ 6 tháng một lần ông mời nghệ nhân giỏi nhất miền Bắc đến tận nhà “lên giây đàn”. Những thanh đồng trong đàn piano được cân chỉnh chính xác, thanh âm chuẩn mới làm ông có cảm xúc ngồi vào đàn. Dạo ấy, ông mới tập đàn, lúc bật bông, lúc như gõ phèng la. Thời bao cấp, mọi người đói, mặt xanh vêu vao, người ta đổ xô trên đường kiếm ăn, Nguyễn Hoàng Đức cũng kiếm ăn, nhưng bằng cách viết báo ngồi ở nhà. Nhọc mệt, thư giãn là lại mở nắp đàn piano tập. Hàng xóm lúc đầu tò mò, trẻ con sang xem, ông ân cần gần gũi tiếp khách, còn cho bọn trẻ nhấn ngón tay mấy cái, thanh âm phát ra, chúng cười ré lên sung sướng. Sau thì tiếng đàn cũng làm phiền họ. Đi làm suốt ngày, chiều tối muốn được thảnh thơi yên tĩnh thì lại bị tiếng đàn hàng xóm tra tấn. Bán rau dưa, cà muối, cá khô suốt ngày phơi mặt bị khói honda xịt cay mắt… lại bị tiếng đàn của ông hành hạ. Nhiều người lặng lẽ bán nhà chuyển đi nơi khác. Gan dạ thi gan với tiếng đàn của ông nhất là một gã Tổng giám đốc lắm tiền nhiều bạc không chịu chuyển nhà. Gã nghe nhạc qua loa thùng ầm ầm vẫn quen tai, nhưng cứ mỗi lần tiếng đàn piano vang lên bản nhạc “Đồng quê” dù là nhỏ nhẹ dìu dặt, gã vẫn cảm thấy như thanh âm xuyên qua tường, xoáy vào tai gã nhức buốt đến mức không chịu nổi. Gã sai con mở to loa thùng phóng nhạc rốc hiện đại sang phía nhà Nguyễn Hoàng Đức, chống trả lại cuộc xâm lăng của âm nhạc cổ điển. Mặc, ông không hề hay biết vẫn cứ đắm say mê mải với những tiếng nước chảy róc rách, tiếng vó ngựa dồn dập và những thanh âm cuồn cuộn như mây vần vũ, như bão giông cuồn cuộn… trong cô đơn, không chia sẻ cùng ai. Cuối cùng, gã Tổng giám đốc trọc phú cũng phải mua nhà chuyển đi nơi khác. Mới hay, sống chung đã rất khó, cùng hệ mỹ học thưởng thức cái đẹp lại càng khó hơn.
Có một chuyện thật 100%, khi ông chưa mua đàn piano, cô bé nhà bên thường sang chơi thân mật chú cháu đến mức bá vai bá cổ, nhưng khi cứ chiều về, tiếng đàn vang lên trong khoảng không gian căn nhà chật hẹp lọt ra ngoài là cô bé xa lánh, dần dần không bén mảng đến chơi nhà ông nữa. Ông nghĩ rằng: Tiếng đàn đã làm ông sang trọng hẳn lên và cô bé cảm thấy thân phận mình nhỏ nhoi, mặc cảm nên khép mình, lùi xa rồi tránh hẳn. Tôi lại đồ rằng, ông chơi những bản nhạc tình yêu trữ tình lãng mạn nồng nàn như là lời tỏ tình, như là lời mời gọi khao khát khác giới… khiến cô gái mới lớn xao xuyến e lệ lùi xa. Thêm một câu chuyện nữa 100%, gã thanh niên tóc dài lõa xõa bên nhà ông, tục tằn, chuyên nói tục với ông, nhưng từ khi cây đàn piano ngự trong nhà ông thì gã đằm tính lại, nói năng nhã nhặn và hết xả ra những lời thô lỗ.
Bây giờ, ông là tay pianist nghiệp dư cự phách nhất Việt Nam, chứ không phải gã gõ thùng tôn như thời mới tập đàn. Bây giờ, quây quần quanh nhà ông là những người hàng xóm tốt bụng, yêu nhạc, cứ vài ngày ông bị mệt hoặc đi chơi xa, vắng tiếng đàn là họ lại nhớ nhung, gọi vóng sang: “Chơi đàn đi, ông Đức ơi!”
((còn nữa) S.N.M